Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

SỢ HÃI

SỢ HÃI

sợ hãi đi qua em
kinh hoàng làm em hoảng
sợ trước nhát dao tử
mạng lạnh ngắt nơi em
đến để học yêu thương
học yêu người tạo hạnh
phúc em úp mặt chạy
trước nhát dao người anh
người anh trai và người
người cũng sợ sợ hãi
cũng như em hạnh phúc
sợ hãi chạy trốn thay
vì đuổi theo không còn
là anh trai em mà
là gì anh trai em
chắc cũng đang sợ và
tự hỏi mình sát nhân
thì mình vẫn là một
con người con người sao
không có công bằng công
bằng cho em cho nỗi
sợ hãi trong em tại
sao em chỉ mình em
phải chịu đựng nỗi sợ
hãi hay bất công hay
gì gì đi nữa giờ
đây trước cổng trường em
các bạn em thế giới
này cùng đang sợ hãi
sợ hãi như em mặc
cho cái gì đó đã
từng làm em sợ hãi
trước nhát dao đầu tiên
trước nhát dao thứ hai
vào con người con người
cho đến khi nỗi sợ
hãi trong em bật khóc
và biết chạy đi chạy
đi trước khi sự yếu
đuối quay trở lại trở
lại làm cho em sợ...

(hình như tại đây chính
tại đây cách đây nhiều
tháng trước một vụ uy
hiếp các trẻ em trong
trường mẫu giáo đã xảy
ra và giờ đây một
thanh niên chém liền hai
nhát vào cổ của hai
phụ huynh ngồi chờ đón
em trước cổng trường em.)

28.8.2013 Xuân Thủy

HIỆN SINH

HIỆN SINH

Cuộc đời này ta nên
khóc hay nên cười hay
nên hạnh phúc hay nên
đau khổ đâu là sự
thật đâu là giả hiện
sinh ta và hiện sinh
người nỗi đau mà không
được khóc không khóc được
niềm vui mà không cười
được không được cười…
Ta bàng quang ta mệt
mệt ta bàng quang người
ta bàng quang đời mệt…
hay chỉ là con chim
con chim nó hót véo
von véo von nghe hay
hay mà không biết chi…
cái chi chi chành chành
cái chết của con chim
của con thiên nga thật
thà vô nghĩa mấy ngàn
thế kỷ rồi chăng… rồi…

Xuân Thủy 25.8.2013

BỖNG THẤY MÌNH CÓ LỖI

BỖNG THẤY MÌNH CÓ LỖI

Trong tận trong giấc mơ ngày ngủ sớm
bỗng bóng bạn xưa mùa xuân đen láy
tiếng chuông điện thoại đổ dồn trong óc
giữa giấc đêm còn chưa biết là ai
bạn có về xe đi về phía đất Mũi
khi tỉnh hẳn định thần đã quên về
về đâu mất rồi ừ tôi đi đây
ra bến xe đón chuyến đò nơi đường
gì khi tỉnh hẳn định thần cũng quên
bạn ra đi ... mình tới rồi ... mà xe
đi mất tiêu rùi bạn cứ tới đây
là đón được chuyến đò qua mình
đợi bạn ... đợi bạn phía trước... rồi không
hiểu được sao mình có thể trả lời
như thế được như thế không biết nữa
những ý nghĩ dập dồn trong ký ức
chúng dẫm đạp lên nhau chẳng thành thơ
nỗi nhớ trào lên cố định thần trong
cơn hỗn chiến của những ngôn từ vô
nghĩa đôi mắt huyền hàng mi đen láy
mái tóc thề nghiêng dáng hình tử tế
bạn hiện về mà mình tên còn không
nhớ có lẽ vì những ngày qua chúng
ta chỉ là người dưng và nước lã
người bạn phổ thông một thời buồn trong
mình cũng chẳng biết nhau chẳng biết nhau
trong gia cảnh bạn và tôi không biết
có lẽ chúng mình sẽ chẳng hiểu gì
nhau nếu sống cùng nhau trên thế giới
rồi vô tình gặp bạn trong khách sạn sang
trọng là duyên ư mình cũng chẳng còn
quan tâm nữa giữa cõi người vô tâm
lắm với mình không kể lại chỉ biết
email của bạn...trong vài phút giây ngắn
không nán lại đợi vì nghỉ cõi đời
giờ đây cho ai tin ai nữa được
ngay cả kẻ thân trong một gia đình...
điện thoại reo rồi bỗng bạn mời đi
đám cưới bạn kể chồng bạn là một
giáo viên được học bổng đi Mỹ học...
có lẽ lúc đó mình buồn chứ tủi
mình mời đám bạn còn sót lại cùng đi
chúng lại bảo không có thiệp cưới thì
không đi mình lại thui thủi một mình
quên đi tất cả giờ thì giấc mơ
làm mình nhớ được tên của bạn rồi
Phạm Thị Tường Vy ... cơn đau loài người
làm những gì mình cố viết để hay cũng
thành ra lố bịch... lố bịch lắm...khiến
kẻ đọc cũng phát điên... thôi thì mình
nhớ ra bạn rồi, giờ bạn thế nào
mình cũng không biết được mà mình
trước giờ cũng chẳng lo toan được cho
cho ai cho cả chính mình cứ sống buồn
tịch mãi vậy thôi trong một hồn kia
nhỏ bé chẳng hứng được chút giọt sương
buổi sớm nay tỉnh giấc... ừm vui nhé
mình thì chỉ có mỗi vậy... ừm vui nhé
đã không còn những sức lực ước mơ
nay bạn lại gọi cho mình trong mơ
có chuyện gì hay chỉ mình nghĩ vậy
mình lục lại số điện thoại bạn mình
đã xóa mất rồi thời chúng mình không
còn lại ai bên nhau có gặp lại
cũng chẳng còn tin nhau nữa lại nghĩ
là làm phiên chuyện gì đây bỗng thấy
bỗng thấy mình có lỗi trong giấc mơ
không đợi bạn cùng đi chuyến xe về
Đất Mũi...

Xuân Thủy 25.8.2013

ĐẾM NGƯỢC THỜI GIAN

ĐẾM NGƯỢC THỜI GIAN
đếm từng phút từng giây không sẽ
đến mà trở về trở về trong
từng phút từng giây tôi đã bỏ
quên từng gì đó đã từng sẽ

đến bên tôi ngồi bên tôi đã
có bao nhiêu lần yêu thương là
thật sự trong số lần tôi đếm
ngược dòng trôi tôi nhìn em thèm

thuồng trong máu dòng máu nóng tro
cho đến một ngày tôi nhìn ai
nhìn ai đó tim tôi không còn
thổn thức thổn thức dại khờ qua

đóa hoa hồng vàng hay màu áo
hay đóa hoa màu vàng ly biệt
dại khờ sao không là màu đỏ
màu máu nóng trong tôi dại khờ

đi tìm em qua cái tên còn
lại với biết đâu là tình yêu
tình yêu thật sự màu vàng hay
màu đỏ hay cả hai giờ đây

đếm ngược liệu ích gì dù có
bao nhiêu từng phút từng giây nữa
dòng máu kia đã nguội cả rồi
nhìn ai kia đã lạnh màu không

không chẳng còn tình yêu gì cả
cả những thổn thức những hồn thơ
em đang hát trong anh thật sự
là những ngày qua vô nghĩa quá

mà ta bước bước về phía trước
với những lời nói ra nói vào
của người đời kia ư như những
sợt dây gai tiếp tục như những

phút những giây sẽ sẽ xé nát
mảnh đời còn lại kia khi mà
dại khờ kia mới là tình yêu
tình yêu thật sự chẳng cần đi

đâu về đâu chẳng cần hoa vàng
hay hoa đỏ chẳng cần tiếng ai
kia ta yêu em và thế là
từng phút từng giây ta sống lặng

hiên nhà rồi sẽ có ai kia gõ
cửa chào như tiếng thời gian ngắt
lời hoa nhỏ hoang dại trước hiên
nhà ngôi nhà có thể ngày mai

mới đến được từng phút từng giây...
như tiếng thở con tim ta đập
lại nhẹ nhàng hơn ngàn vạn lời
cay đắng cay cay đắng quá ai ...

Xuân Thủy 27.8.2013

SÁNG YÊU ĐỜI BÊN BIỂN

SÁNG YÊU ĐỜI BÊN BIỂN

anh nằm trên bờ bình yên nghe
mắt nhắm hiền vô ngại cõi thu
về đây gió bỗng hờn ghen hát
vô tình hay cố ý hôn môi mềm

em à em anh chỉ vô tích sự
suốt đời này có giúp được gì
ai trả lại chi những tháng ngày
tháng ngày anh thức giấc vô tình

đừng hy vọng làm chi thôi em
kẻ như anh suốt ngày ca cẩm
cẩm ca bài ca yêu trong tỉnh
thức nụ hôn nồng gió lộng biển

ca thôi ca thôi chẳng có gì
chẳng có gì hơn manh áo đi
đi xin miếng cơm địu nhặt vô
thường ngẩn ngơ nghĩ đươc người yêu...

Xuân Thủy 29.8.2013

NHẬU

NHẬU
Người ta đi nhậu tẹt ga
cả giấc sáng cả giấc trưa giấc chiều
người ta thường hay nhậu ấy
ở những nơi ra tiền ra tiền như nước
như bến cảng nơi hàng chất
chất đống đống chuyển chuyển chảy chảy chảy
như nước chỗ đó nếu không
nhậu không có văn hóa ăn uống chỉnh
tề mang bản sắc dân tộc
thì làm sao share được tiền nào ra
tiền nấy sao công bằng được
nói thẳng ra rồi lại ghen ăn tức
ở vậy sao mà không phải
phải say ấy chớ nà ấy chớ nè
ấy bài toán ấy không khéo không xong
không xong à nha sứt đầu
mẻ trán như chơi rồi bao vụ án
nhưng thôi nói ra làm gì
uống đi uống cơ quan điều tra nó
cũng phải mết cũng phải mệt
chớ báo chí nó rảnh sao mà bàn
thế là xong nó cũng phải
nhậu như anh em mình thế là xong
có giết người trên báo nghe
ghê chứ xong rồi báo cũng phải bỏ
cũng phải xếp vào vì chét
là hét nhẹ người bao kẻ khốn cùng
thôi nhậu đi sáng chưa xong
trưa chưa xong chiều chưa xong anh em
mình nhậu tiếp nhậu tiếp đến
khi nào công bằng công bằng mới thôi
tình nghĩa anh em vui là
chính nào cụng cụng nào rồi về ngủ...

(sáng mai tỉnh dậy cười khóc
thì vẫn là buổi sáng buổi sáng đến
trưa rồi lại ngày qua ngày
qua đừng manh động được ít được nhiều
cũng say cũng lưng cũng cạn
chén chia phôi... ha ha ha đi nhậu đi
khác nào đánh nhau ván cờ
thua thì phải chịu thua làm ván khác...
không biết mình sao thua sao
thắng... )

XT. 29.8.2013

Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Nhớ Phá Tam Giang

Nhớ Phá Tam Giang

Ly trà sáng chớm lạnh vì mưa
ngắm người qua chẳng ai ngắm mình
chẳng có em ly trà sáng nay
đâu rồi đâu rồi ly trà mùa

dông bão chúng mình chìm trong bão
ngắm nhìn nhau cái tình người muôn
năm cũ muôn thưở trước đất lở
trời mây đắm mặt hồ gương ngắm

mặt người qua tờ báo sáng đón
cơn bão đầu tiên như chúng mình
thưở trước ngày nắng không báo hiệu
cơn bão sớm chớm lạnh nụ cười

em có còn nhớ Phá Tam Giang
cửa Đại đất lở trời long trong
mắt ai cửa Tư Hiền chớm lạnh
ngắt hớp trà vô vị cay đắng

trời... đâu rồi đâu rồi ly trà...

XT-NĐB 20.6.2013

KHÔNG ĐÂU RA ĐÂU

KHÔNG ĐÂU RA ĐÂU

Tôi đã đi quá xa đoạn đường
dài đường vòng đáng lẽ không cần
mua đường đến thế những con đường
mà ai cũng quả quyết chúng giống

nhau nhưng mà dần dà chúng những
con đường làm biến đổi tôi tôi
khác mà con đường cũng khác thời
khắc uổng phí đó là thời khắc

khắc làm tôi đơn độc với những
ý nghĩ của mình những ý nghĩ
chẳng đi đến đâu chẳng ra đâu
vào đâu tôi bị cách ly khỏi

loài người không còn ngôn ngữ nói
ra câu ra cú có chấm có
phẩy có đầu có đuôi có những
thứ cố để mê hoặc loài người

Tôi chỉ còn thấy sự hỗn mang
như thể nhìn qua tấm kính và
nghe qua cái tai nghe chúng ... Tôi
cùng chuyển động như những phân tử

vật chất chúng kể cả tôi chuyển
động trên những băng chuyền làm bằng
từ ngữ không đầu không đuôi không
không đâu ra đâu vào đâu cả

ai cũng gật đầu nhưng không nói...
làm tôi quên mất trời đã tối
bỏ quên câu chuyện buổi sáng nay
đang chạy theo tôi về nhà về

nơi tôi lạc lối vì đã đi
quá xa buổi chiều đến nỗi quên
mất buổi sáng nay ...em đã chào
Anh ra đi đến khi mất hút...

Xuân Thủy 15/7/2013

BI QUAN

BI QUAN

Không đâu, vì đất nước ...
trải qua bao chiến tranh...
nụ cười của chúng ta
hôm nay có nỗi đau
ngàn năm trước khác với
tất cả nụ cười của
các dân tộc khác... chúng
ta nào bi quan... chúng
ta luôn lạc quan nhưng
trong màu mắt biếc mảng
đen tuyền rất đẹp...


hạnh phúc nào không phảỉ
trả giá không bạn, để
đến được mùa xuân mùa
xuân thì phải trải qua
mùa đông khắc nghiệt chứ

XT + DinhHoang Nguyen 10.8.2013

NHỮNG CÔ GÁI ĐI TRÊN VỈA HÈ

NHỮNG CÔ GÁI ĐI TRÊN VỈA HÈ

Và những cô gái dạo bước đường
trưa đưa trưa ngát nắng Sài Gòn
giờ tan trưa mà nắng còn sau
lá lá mùa mưa hay lá mùa hè
mùa này không biết nữa con lá
nằm sau mưa ngày hôm qua đã
vàng theo vàng theo lá nắng xanh
xanh màu dạo bước bông hoa lên
phố trưa như đỏ đèn đêm Sài
Gòn đêm qua đêm qua đêm qua
tôi không hát khúc hát tôi vừa
hát chỉ mình tôi nghe đâu cần
ai biết vì những bông hoa dạo
bước đường trưa đường trưa làm
tôi mát giữa giờ tan công sở
và đêm nay đêm nay một mình
tôi hát khúc ca cuộc đời tươi
tươi đẹp sao những đóa hoa dại
trên vỉa hè người con gái Sài
Gòn ngây ngất nắng và cơn gió
thổi nhòe những giấc mơ trưa nào...

XT 16.7.2013

THT là phương cách cho chúng ta miêu tả lại cuộc sống sinh động và đáng sống một cách đơn giản và đẹp...

HÃY NGỦ ĐI EM

HÃY NGỦ ĐI EM

Lòng em vô ưu sẽ ngủ được 
thui em à mong chi đời nhấp 
nhô ưu sầu lòng ai không mong
cho ngày mai hạnh phúc mà có
ai cùng chung bên ta bước đường
này lòng em vô ưu vô sầu 
rồi lòng ai cũng sẽ vô ưu
vô sầu đi bên em mộng bình
thường bình thường một ngày bình
thường một đời như lòng ai cũng
vô ưu vô sầu ca hạnh phúc...

rồi sẽ bước cùng nhau mệt nhoài
ngục xuống thôi như ta chơi một
trò chơi "điện tử" rồi cũng sẽ 
có lúc ta mệt nhoài ngủ đi em
một trò chơi sinh học đấng tạo ...

XT 18.8.2013 tặng nhiều bạn mất ngủ

TỪ ĐÂU ĐÓ

món nợ lớn nhất là tình cảm
món nợ lớn nhất là thấu hiểu
để thấu hiểu thật khó vì sao?


Hôm nay mình gặp một câu Stay in touch!


Sự va đập khi con người ta tỉnh giấc rồi quay trở lại giấc ngủ tạm lánh rời sự va đập ấy, va đập vào hình ảnh vào âm thanh vào tâm thức,... có những va đập vào ta mà ta không để ý và vờ như đó là vô thức,... một lời nói có ý thức của người này nhưng không được nhận thức bởi người khác, sự tiếp thu thấu hiểu trở nên khó khăn đến dường nào... nói về sự phức tạp ấy sẽ là không đủ thời gian như thể ta có bao nhiêu việc phải làm nhưng không sao đủ để làm tất cả những gì ta muốn... mà còn phải xét xem điều đó có thực sự cần thiết và thực sự là ý muốn của ta là đúng đắn không nữa... nếu đi theo chiều hướng đó sẽ không bao giờ đạt được sự đủ... 


Vậy là vô thức và ý thức cứ chuyển hóa cho nhau, chỉ là cách mà ta phân biệt chứ còn khi chưa có ta thì nó đã tồn tại rồi... chuyển hóa lẫn nhau...


Vậy sự sân si hỉ nộ và ái ố kia cũng vậy, điều quan trọng không phải là phân biệt đâu là cái này hay là cái kia...mà là ở chính trong sự giận đến cực ta cũng có trong đó sự hỷ xả đến cùng... để cho chúng tự chuyển hóa trong ta, không cho rằng sự không hiểu của người này là mâu thuẫn với sự hiểu của ta... mà có khi sự hiểu của ta lại không cần đến bằng sự không hiểu của người khác...


Trên mặt trận của ngôn ngữ vẫn là mặt trận chủ lực để con người có thể xích lại gần được với nhau hơn, trong cõi khổ này... thấu hiểu có đôi khi những người thân thiết nhất với mình mình lại khó hiểu và cảm thông được nhất...


Giữa lý tính và cảm tính, giữa lượng và chất,... ngôn ngữ hơn ai hết cần đến sự phát triển một cách tự nó hơn là bị áp đặt bởi chính mỗi chúng ta và cho rằng nó là nô lệ của ý nghĩ của chính mình,...


Làm sao chúng ta có thể có hạnh phúc thực sự khi quanh ta còn thiếu những ánh ban mai tự sáng nhưng lại bị ai đó che khuất đi sự thật... Đôi khi ta hỏi đâu là sự thật? đó là một câu hỏi không có câu trả lời dù đã có vạn lời... sự vô định làm ta tròng trành và bất an... Nhưng trên điểm tựa của đời thường, sự sinh ra của chính ta của một loài hoa xác xuất... và khi thức giấc chẳng phải ánh mặt trời đã giao phó cho mỗi chúng ta một nhiệm vụ đó là nhận thức về cái hiện tồn cho đến khi chúng biến mất trong giấc ngủ của chúng ta... làm sao một người con gái và một người con trai có thể yêu thương và thấu hiểu lẫn nhau khi họ không nhận thức được đâu là sự hiện tồn và phó mặc cho sự va đập vô thức mà không cần đến giọt nước mắt... không kiếm ra được tiền nhưng lại muốn đi chơi sang... và tìm cách làm một điều gì đó một cách bản năng của một loài thú đơn thuần đó là dựa vào cái đã tồn tại và buộc nó phải làm nô lệ cho ý thức của chính mình... khi đó sự nhận thức bất lực không thể sai khiến được chính tay chân mình đang được ban cho một hành động khác với bản năng của muôn loài được sinh tạo... sự chấp nhận đó cũng giống như bắt ngôn ngữ trở thành nô lệ của ý thức của chính mình...


Khi con người thay đổi được bản năng đó thì họ mới muốn đọc thơ của người khác không phải là để giải trí giết thời gian mà là để thấu hiểu hơn chính mình và thế giới xung quanh họ... đưa họ từ vị trí người nô lệ trở thành một người bình đẳng với tất cả mọi người... từ ý nghĩ cho rằng mình chỉ là... trở thành một con người đích thực và đồng hành với tất cả mọi người bước tới tương lai của mình thay vì quay lưng lại với những gì mình chưa có họ luôn thấy có những gì mình chưa có... cái không thể trong ngôn từ kia sẽ có thể khi con người thấu hiểu với nhau bằng một ngôn ngữ chung... ngôn ngữ ấy không màu không mùi không vị nó có tên là tình yêu...


XT 22/8/2013


TỪ BẦU TRỜI


Chiến tranh là sự hoảng hốt của 
bày sói trước cơn đói của tạo 
hóa chiến tranh là sự sợ hãi 
của bày sơn dương làm cho cánh
rừng lông đen bỗng dưng cháy rụi
trong mắt một đứa trẻ ngờ nghệch
rơi tự do trên bầu trời chờ
một con chim cứu giúp vì chẳng 
thể nào khác được nó sinh ra...


XT 22/8/2013

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2013

ĐỪNG TRÁCH

ĐỪNG TRÁCH

người đọc đừng trách nhé vì đôi bài thơ còn giống văn xuôi (chưa có tính nhạc) có ý mà chưa có mỹ cảm nghệ thuật vì thơ THT hướng đến người làm thơ là những người bình thường đời thường trong cuộc sống chưa phải là nhà thơ am hiểu về kiến thức nghệ thuật.

chính vì vậy các nhà thơ chính là người mở đường dẫn lối làm các bài thơ gần hơn với những con người của đời thường để từ đời thường ấy từ những con người bình dị của cuộc sống muôn màu cất lên tiếng hát của chính họ bằng những công cụ thật đơn giản của THT

Xuân Thủy 10.8.2013

THÔI

THÔI

Vì em yêu .....!!! Chỉ còn em với
những cô đơn ngày tháng sẽ trôi
vô vọng. Từng giọt nước mắt giờ
đây em khóc có làm được gì.
Đến cuối cùng rồi thì ta cũng
chia tay nhau thật rồi. Thì thôi
anh hỡi còn giây phút cuoi' ta
hãy cố bên nhau cười vui. Nói
yêu nhau lần cuối đêm nay rồi ...

Trần Như Quỳnh

bài thơ kia dù viết theo cách THT nhưng dưới lăng kính của người chỉ biết đến thơ vần hoặc viết văn xuôi thông thường không thóat được nỗi buồn... không lý giải được bản ngã của chính mình để cứu chuộc hồn mình ra khỏi nỗi đớn đau mà mình đang chịu đựng... tình cảm vốn không có lý lẽ mà lý lẽ đúng thì tình cảm phải đi theo nhưng giữa đời thường hỷ nộ ái ố sân si sự ham muốn vẫn thường phớt lờ lý lẽ coi lý lẽ lý giải là đồ xúc xiểm mình làm cho mình tự ái làm cho mình không được coi trọng...

cuộc sống này lạ lắm cứ người lớn nói là trẻ con phải nghe, cứ lãnh đạo nói thì cấp dưới phải làm dù cho người lớn hay lãnh đại có sai đi nữa và bào chữa bằng cách người lớn hay lãnh đạo chịu nhưng thực tế là tương lai đang phải trả nợ cho đất nước này...

dưới lăng kính của THT:

Đã cuối bao nhiêu mùa thu em
Những gì qua là tình hay em
nếu là tình Anh ở lại em
còn nếu là em hãy là em

Xuân Thủy

Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

HÀNH TRÌNH CỦA TỰ DO

HÀNH TRÌNH CỦA TỰ DO

Trích VŨ ĐIỆU KHÔNG VẦN
Tìm đọc giá 75.000VNĐ NXB VĂN HỌC

Những quan điểm mỹ học

Thế kỷ 19, với hai dấu ấn quan trọng trong nền thơ tiếng Anh, thời kỳ Lãng mạn (1780-1830) và thời đại của nữ hoàng Victoria (1837-1901). Những nhà thơ ở thế kỷ này, tuy không từ bỏ nhưng đã có khuynh hướng nới lỏng luật truyền thống, chuyển tới nhịp điệu tự do, đồng thời thay thế nghệ thuật tu từ bằng ngôn ngữ nói thông thường. Ảnh hưởng lý tưởng và thấm sâu tinh thần cuộc cách mạng Pháp 1789, William Blake (1757-1827), nhà thơ thời tiền Lãng mạn và William Wordsworth (1770-1850), nhà thơ thời Lãng mạn, thoát khỏi ràng buộc cả về chủ đề lẫn luật tắc của thế kỷ 18, báo hiệu ba đỉnh cao ở thế kỷ 20 – thơ tự do, thơ W. H. Auden (1907-1973) thập niên 1930 và phong trào Tân hình thức Hoa kỳ vào cuối thế kỷ. William Wordsworth tuôn câu chuyện thường ngày vào thơ, cho rằng những biến cố hàng ngày và câu nói của người bình thường mới chính là chất liệu ròng của thơ. Hầu hết tác phẩm của ông đều viết theo thể không vần, đặc biệt là tập Lyrical Ballads(1798) mở đầu cho phong trào Lãng mạn, và tác phẩm quan trọng, The Prelude, gồm 13 cuốn, dùng biến cố của chính cuộc đời mình để khám phá sức mạnh tưởng tượng của con người.

Tiếp theo, những nhà thơ ở thời đại Victoria, Robert Browning (1812-1889) đưa thơ không vần phù hợp với nhịp điệu của ngôn ngữ nói, trong khi Gerard Manley Hopkins (1844-1889) hòa trộn giữa luật trọng âm thời Anglo-Saxon và luật truyền thống thời kỳ tiền Chaucer, chuyển từ luật tắcđến phi luật tắc,với quan điểm, thơ là một nghệ thuật nói, nhịp điệu của ngôn ngữ thông thường. 

Nếu những nhà thơ trên lơi lỏng truyền thống, mang thơ gần ngôn ngữ tự nhiên nhưng vẫn nằm trong truyền thống thì Thomas Traherne (1636-1674), một nhà thơ tu sĩ, và sau này, Walt Whitman (1819-1892), với tập Lá Cỏ(Leaves of Grass) – bắt chước bản dịch Thánh kinh, khi vua James của nước Anh ra lệnh cho một nhóm giáo sĩ, do Lancelot Andrewes (một tu sĩ viết văn xuôi với phong cách siêu hình, có ảnh hưởng lớn trong Thanh Giáo, mà T.S. Eliot coi như bậc thầy) chủ biên, dịch vào năm 1604 và hoàn tất năm 1611, gồm cả Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), cắt đứt truyền thống – làm cuộc cách mạng với thể thơ tự do (free verse), chủ yếu dùng cú pháp song song (syntactical parallelism), dòng trước tiếp theo dòng sau cùng một cấu trúc văn phạm, đôi khi tạo dạng thức câu bằng cách lập lại trật tự của chữ, chỉ biến đổi nhẹ thay vì phải lập lại âm tiết nhấn hay số chữ:

Houses and rooms are full of perfumes, the shelves 
are crowded with perfumes,
I breathe the fragrance myself and know it and like it,
The distillation would intoxicate me also, but I shall not 
let it.

(From “Song of Myself,” 1855)


Những ngôi nhà và căn phòng đầy mùi hương, những kệ 
tủ đẫm hương, 
Tôi thở hương thơm tự chính tôi và nhận biết và ưa thích,
Sự tinh lọc cũng làm tôi ngất say, nhưng không để nó 
làm say.

Chúng ta thấy, “the shelves are crowded with perfumes”được coi là câu “vần” với “Houses and rooms are full of perfumes” bởi cả hai theo cùng một thứ tự chữ, “and know it” và “and like it” cũng vậy. Tuy Walt Whitman hoàn toàn không quan tâm tới luật tắc nhấn nhưng những câu thơ dài thường rơi vào hexameter (dòng 6 foot), và phong cách của ông không phải là ngôn ngữ nói mà là ngôn ngữ cầu khẩn, không phải trò chuyện mà là hát và nghi thức, mang hơi hướm tu từ ở thế kỷ 19, với ưu thế của ngôn ngữ trọng âm. Whitman đưa thơ tự do thành một thể mới trong thơ tiếng Anh, biểu hiện cho tinh thần dân chủ đặc biệt Mỹ, với âm giọng Mỹ, nhưng ngoài cú pháp song song, Whitman không đóng góp gì về kỹ thuật, chỉ thay thế luật tắc bằng cú pháp, không như Hopkins là người đồng thời, từng khổ tâm về âm nhấn và âm tiết, và T.S. Eliot (1888-1965) sau này, phám phá ra nhạc điệu cú pháp (musical syntax). Như vậy, sau 5 thế kỷ, từ khi Geoffrey Chaucer chuyển nguyên tắc thơ Hy lạp thành thơ truyền thống, những nhà thơ tự do đầu thế kỷ 20 phá bỏ truyền thống, trở lại gần luật trọng âm thời Anglo-Saxon. Nhưng có lẽ sau khi người Normandy chiến thắng mang vào ngôn ngữ đa âm, hòa trộn với ngôn ngữ đơn âm, cách phát âm cũng thay đổi mạnh mẽ từ năm 1300, người nói tiếng Anh bây giờ không hiểu người nói tiếng Anh ở thế kỷ 14, thơ tự do vì thế chỉ gần với luật trọng âm ở phần ngôn ngữ tự nhiên thôi. Thật ra, luật truyền thống kết hợp được sự nhuẫn nhuyễn giữa ngôn ngữ đơn và đa âm, không phải không gần ngôn ngữ tự nhiên, nhưng những nhà thơ tự do đã đánh đồng nghệ thuật tu từ với thể luật và vì thế, phá bỏ luôn thể luật. Phá bỏ thể luật, có nghĩa là dòng thơ không nhất thiết hạn chế trong số âm tiết nhất định mà có thể dài ngắn khác nhau. Nếu Walt Whitman (1810-92), và sau này Allen Ginsberg (1926-1997) ở thập niên 1960 dùng câu rất dài, thì những nhà thơ mở đầu cho thơ hiện đại, với Ezra Pound (1885-1972) và phái Hình tượng (Imagist) lại dùng dòng ngắn gọn. Ezra Pound và T.S. Eliot thấm nhuần và chú tâm rất nhiều tới ngôn ngữ và thơ tự do Pháp, dùng tài liệu và đánh giá sự khai phá của nguồn không tiếng Anh, tìm kiếm một quan điểm mỹ học mới, vì thế nguyên tắc của thơ tự do Anh không khác gì mấy với thơ tự do tiếng Pháp. Cũng giống như Walt Whitman, khi Thánh kinh tới Pháp, những nhà thơ Tượng trưng như Arthur Rimbaud (1854-91) phản ứng và tìm ra một thể thơ khác, dựa trên cú pháp văn phạm thay vì cách đếm âm tiết. Cấu trúc thơ tự do Pháp tương tự như “cú pháp song song” của Whitman, dựa vào cú pháp và hình thái văn phạm để tạo nhịp điệu, và nhà thơ Pháp đầu tiên viết theo thể tự do có lẽ là Gustave Kahn (1859-1936). Luật truyền thống Pháp theo cách đếm âm tiết, khó tạo nhịp điệu cho dòng thơ, nên dựa vào 3 yếu tố – trong thơ, khác với văn xuôi, mẫu tự cuối “e” được phát âm trừ khi theo sau bởi một nguyên âm, chú tâm rất nhiều tới vần 1 âm tiết, 2 âm tiết và 3 âm tiết, cách ngắt câu, cùng giọng điệu tự nhiên của ngôn ngữ. 

Như vậy thơ tự do Pháp khi thoát ra khỏi dòng âm tiết (phổ thông là dòng 12 âm tiết), đã kết hợp nghệ thuật cú pháp, ưu thế điệp âm điệp vận của ngôn ngữ đa âm, cách ngắt câu và giọng điệu tự nhiên, hòa hợp với yếu tố truyền thống, không đơn thuần là những câu dài ngắn khác nhau, và chính yếu tố tạo nhịp điệu từ ngôn ngữ nói đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới Ezra Pound và T.S. Eliot Phong trào Hình tượng với T. E. Hulme (1883-1917), Erza Pound, và Amy Lowell (1874-1925), và sau này, Hilda Doolittle (1886-1961), D. H. Lawrence (1885-1930), F. S. Flint (1885-1960) và ngay cả W.B. Yeats (1865-1939) và T. S. Eliot, dù muốn hay không cũng có đôi lần là nhà thơ Hình tượng. Phái Hình tượng chủ trương: 

1. Dùng ngôn ngữ nói thông thường với chữ chính xác.

2. Tạo nhịp điệu mới – diễn đạt trạng thái mới – không sao lại nhịp điệu cũ vì đó chỉ là âm vang của trạng thái cũ, nhịp điệu mới có nghĩa là ý tưởng mới.

3. Tự do tuyệt đối chọn lựa chủ đề.

4. Thể hiện hình ảnh. 

Ezra Pound cho rằng nhịp điệu cần nương theo chuỗi nhạc tiết (sequence of the musical phrase), không phải những âm tiết, thể hiện cảm xúc và trí tuệ phức tạp trong khoảnh khắc, tuy nhiên, T.E. Hulme lại cho rằng thơ gần với điêu khắc hơn nhạc, thị giác hơn thính giác, và phủ nhận âm thanh là yếu tố căn bản của thơ. 

Phái Hình tượng phát hiện một yếu tố mới, nhịp điệu thị giác,với thơ thị giác của e. e. cummings (1894-1962) – dùng chữ in kiểu cọ, vặn vẹo cú pháp, phép chấm câu bất thường, chữ mới, ngôn ngữ bình dân đại chúng và tiếng lóng – đồng thời dòng thơ dài nhiều hơi hướm tu từ của Whitman bị loại trừ. Hilda Doolittle (H.D.), Marianne Moore (1887-1972), William Carlos Williams (1883-1963), e. e. cummings đều kết hợp cả thị giác lẫn thính giác, cú pháp văn phạm và dòng iambic để tạo nhịp điệu. Tiếp nối lý tưởng cách mạng khởi xướng từ William Wordsworth, biến ngôn ngữ nói thường ngày thành ngôn ngữ thơ, những nhà thơ lớn ở thế kỷ 20, dù tự do hay truyền thống, phát huy được hết tài năng của họ, và cho thấy, nghệ thuật tu từ giả tạo, đã thuộc về thời quá khứ. Một trong những đặc tính làm thơ khác với ngôn ngữ thường ngày là thơ dùng rất nhiều cách lập lại – bài thơ tổ chức bởi những dòng âm tiết, mỗi âm tiết là một nhịp đập, số nhịp đập và âm tiết cả hai đều lập lại.Trong ngôn ngữ đa âm, sự tái diễn những chùm âm thanh; sự trùng âm, âm vang của nguyên âm; và sự hài hòa, âm vang của phụ âm, dễ tạo thành vần một cách tự nhiên hơn các ngôn ngữ đơn âm. Trong thơ tự do, rất nhiều bài thơ bao gồm sự lập lại dòng hay toàn thể một nhóm chữ, hàng loạt hiệu quả được tạo ra bởi sự biến đổi của dòng thơ, nhấn mạnh và làm sáng tỏ qua kỹ thuật dòng gãy (line break) hay vắt dòng. William Carlos Williams cho rằng thơ tự do làm lỏngnguyên tắc nhấn, giải thích trong thuật ngữ foot biến đổi (variable foot), kéo dài để có nhiều âm tiết, nhiều chữ, hoặc nhóm chữ, vì trong cách nói thông thường, được đánh giá bằng tiêu chuẩn hiệu quả và biểu đạt, chứ không phải đếm âm tiết. Ông dùng ngôn ngữ đơn giản, trực tiếp, tránh biểu tượng khó hiểu, với chủ đề và biến cố thực mà một người bình thường, ai cũng hiểu được. Ông gọi ngôn ngữ của ông là đặc ngữ Mỹ (American idiom), nhấn mạnh vào âm giọng Mỹ, đối nghịch với ngôn ngữ trừu tượng của thơ truyền thống, và cho rằng, qua những mảnh nhỏ của đời sống, có thể hiểu được toàn bộ bức tranh hiện hữu của con người. 

Khi dòng thơ không còn số âm tiết đều đặn, lại phá bỏ nghệ thuật tu từ, nếu không quan tâm tới yếu tố thị giác, dễ có cảm giác, gần với văn xuôi. Về cơ bản, văn xuôi là ngôn ngữ nói và viết thông thường, được phân biệt với thơ bằng dòng(line), sự lập lại (repetitive pattern of rhythm) hay thể luật (meter), theo định nghĩa tiếng Anh. Còn thơ văn xuôi (prose poem) là thể loại giữa thơ tự do và văn xuôi, có hình thức văn xuôi (không vắt dòng hay dòng gẫy), với những đặc tính của thơ như sự lập lại nhịp điệu, thính giác, và cú pháp (rhythmic, aural and syntactic repetition), sự cô đọng tư tưởng (compression of thoughts), cường độ (sustained intensity) và hình thái cấu trúc(patterned structure). Có nghĩa là, trên nguyên tắc, thơ và văn xuôi có cái nền chung là cú pháp văn phạm, nhưng thơ có rất nhiều kỹ thuật chung và riêng (của từng nhà thơ) để làm thơ khác với văn xuôi, vắt dòng và lập lại chẳng hạn. Trước thế kỷ 18, hầu hết văn xuôi viết như thơ (kiểu văn xuôi biền ngẫu trước thời Tự lực Văn đoàn của Việt nam), trong cố gắng làm cho văn xuôi dễ nhớ và lôi cuốn, thơ là nghệ thuật đầu tiên và văn xuôi bắt chước thơ. Sau thế kỷ 19, nhà văn tìm được cách sáng tác riêng cho văn xuôi và phát triển cùng cực thành thể loại tiểu thuyết, thơ đánh mất nhiều khả thể trọng yếu cho văn xuôi, và muốn hồi phục phải hòa nhập với những đặc tính của tiểu thuyết như nút thắt, tính truyện, kịch tính chẳng hạn. Nếu trước kia, nhà văn thử nghiệm, mang ngữ điệu thơ vào văn xuôi, những nhà thơ bây giờ mang nhịp điệu văn xuôi vào thơ, ít nhất phải hay như văn xuôi,nếu muốn nó trở thành thơ.

Ám ảnh bởi nhạc tính, trong cố gắng vượt qua nhịp điệu truyền thống, thơ tự do kết hợp trọng âm của ngôn ngữ Anh, đẩy cú pháp văn phạm trở thành một nghệ thuật, và nghệ thuật ấy càng trở nên phức tạp. T.S. Eliot kết hợp trật tự chữ, tạo cường độvà thư dãn, nối kết và làm nổi bật ý tưởng bằng cách lập lại văn phạm và chữ – cảm giác của sự nắm bắt cảm xúc, của bắt đầu và kết thúc, của xung đột và thinh lặng, thành “nhạc tính cú pháp”. Ông không hề từ bỏ luật tắc mà hòa điệu giữa truyền thống và tự do, thơ không vần, luật trọng âm và iambic, sử dụng những dạng thức nhấn và ngừng nghỉ, số lượng âm tiết và động lực – cú pháp khám phá và làm nẩy sinh cảm xúc của đời sống nội tại, cùng với trật tự chữ dàn dựng trong dạng thức, có ý nghĩa tương tự như sự hài hòa trong âm nhạc. Trong Four Quartets (Tứ Khúc), những dòng mở đầu của bài “Burnt Norton”:

Time present and time past
Are both perhaps present in time future,
And time future contained in time past.
If all time is eternally present
All time is unredeemable.

Thời gian hiện tại và thời gian quá khứ
Cả hai có lẽ hiện diện trong thời gian tương lai,
Và thời gian tương lai trong thời gian quá khứ.
Nếu toàn thời gian luôn là hiện tại
Toàn thời gian chẳng thể cứu chuộc.

Những dòng trên không thể hiện hình ảnh hay ẩn dụ mà là đặc tính tinh túy của thơ, qua nhịp điệu cú pháp và luật trọng âm, âm vang lập lại của chữ và nhóm chữ, cấu trúc cú pháp và hình thái văn phạm quyện lấy nhau, bật lên ý nghĩa văn học, từ đầu đến cuối nghe như những câu bùa chú. Danh từ “Time” bổ nghĩa cho “past”, present”, “future” với chữ nối ”is” tất cả theo một trật tự chặt chẽ. T. S. Eliot làm ngưng sự chuyển động của cú pháp bằng cách chỉ dùng động từ thụ động “is” và ‘are” trong suốt 9 dòng, nói lên ý nghĩa thời gian bất động, cho ta biết lúc nào âm nhạc bắt đầu, sau đó thay đổi cú pháp, chuyển ý tưởng và điều chỉnh trong một đơn vị cú pháp mới:

What might have been is an sbstraction
Remaining a perpetual possibility
Only in a world of speculation
What might have been and what has been
Point to one end, which is always present.

Điều có thể đã là sự trừu tượng 
Vẫn mãi chỉ là điều có thể
Riêng trong cõi ức đoán
Điều gì có thể là và điều gì đã là
Cùng chỉ một cực, luôn là hiện tại.

Với động từ chủ động cách (active verb), những âm vang lập lại được khai triển thành âm thanh đặc biệt và ý nghĩa, và chúng ta nghe một lần nữa giai điệu ám ảnh của cú pháp: 

“Down the passage … Towards the door … Into the rose-garden.”

Footfalls echo in the memory
Down the passage which we did not take
Towards the door we never opened
Into the rose-garden. My words echo
Thus, in your mind.

Những bước chân vang trong ký ức
Xuống thông lộ ta chẳng đi
Tới cửa ta không bao giờ mở
Vào vườn hồng. Lời tôi âm vang
Như thế, trong tâm hồn bạn.

Một loại âm nhạc khác từ đoạn 4 của bài “Burnt Norton”:

Will the sunflower turn to us, will the clematis
Stray down, bend to us; tendril and spray
Clutch and cling?
Chill
Fingers of yew be curled
Down to us? After the kingfisher’s wing
Has answered light to light, and is silent, the light is still
At the still point of the turning world.

Hoa hướng dương có quay về ta, hoa dây leo
Có rũ xuống ta; tua và tung
Nắm chặt và bám lấy?
Buốt giá 
Những ngón tay của cây tùng quăn tít
Quấn xuống ta? Sau khi cánh chim bói cá
Đáp lại ánh sáng bằng ánh sáng, và im, ánh sáng 
lặng mãi
Ở điểm lặng của thế giới vần xoay.

Chữ “still” dòng trên, vần luật với chữ “chill”, làm người đọc có khuynh hướng ngừng nhẹ ở cuối dòng, là tĩnh từ bổ túc cho chữ “light” nhưng có thể trở thành trạng từ bổ túc cho dòng kế, có hiệu quả đủ mạnh, bổ nghĩa cho cả hai dòng thơ – ánh sáng lặng mãi “ở điểm lặng của thế giới vần xoay.” Trong “Waste Land”, T. S. Eliot tổng hợp nhiều kỹ thuật khác nhau, chuyển đổi từ luật trọng âm, thơ không vần, hòa trộn giữa iambs và anapest qua những hình ảnh vỡ nát, độc thoại, đối thoại, trò chuyện với rất nhiều giọng điệu. Cấu trúc kịch tính của “Waste Land” đòi hỏi cách nói thông thường (colloquial idiom), gần với văn xuôi và thơ không vần, là một tác phẩm không cốt truyện, nhưng rất nhiều yếu tố như nhạc tính, chủ đề, giọng điệu, người đọc phải gắn lại với nhau để tìm ra những khác biệt và liên hệ, tạo dựng lại để tìm ra ý nghĩa. Đây là một tác phẩm phần mảnh, khó hiểu với những huyền thoại và biểu tượng tôn giáo, ngay cả đối với người đọc tiếng Anh. Trên đây chỉ là vài điểm rất cơ bản trong nghệ thuật cú pháp, có thể nói, Eliot đã đẩy lên tới chỗ hoàn chỉnh, quan niệm của trường phái Hình tượng, dùng âm nhạc thay thế nhịp điệu truyền thống. Nếu ngôn ngữ bắt đầu từ sự việc cụ thể, sau đó mở mang thêm những từ trừu tượng, chữ cụ thể gần gũi với kinh nghiệm – những gì có thể tưởng tượng, giúp chúng ta thấy, nghe, cảm và kinh nghiệm, trong khi chữ trừu tượng thuộc về trí tuệ nhiều hơn cảm giác – thì thơ tạo nên từ kinh nghiệm nên ngôn ngữ thơ thường là cụ thể. Chủ nghĩa khách quan nhấn mạnh vào tính cụ thể của bài thơ, và chữ là những sự vật có thể sờ mó được. Nhà thơ chống lại trừu tượng, làm cho chữ sống động, và bài thơ hoàn tất sự sống động đó bởi sự ngưng lại của thời gian, mắc vào trang giấy như sự vật không hề chuyển động. Bài thơ của William Carlos Williams:

Between Walls
the back wings
of the
hospital where
nothing
will grow lie
cinders
in which shine
the broken
pieces of a green
bottle.
1938

Giữa Những Bức Tường
những cánh hậu
của
bệnh viện nơi
không có gì
sẽ nảy sinh trơ
tàn tro
trong đó ánh lên 
những mảnh
vỡ của cái chai
xanh.

Bài thơ như một câu văn nói, với những chữ được cắt rời ra và phân bố trên trang giấy, không có gì xảy ra, động từ (lie, shine) không thể hiện động tác mà chỉ có chức năng như một từ nối. Ý nghĩa bài thơ được hiểu ngầm chứ không tỏ rõ, đằng sau nhà thương, những tàn tro, miểng chai tạo cảm giác hoang vắng, và tia sáng mặt trời phản chiếu qua màu vỏ chai xanh, càng làm cho cảnh tượng thêm phần trống trải. Bài thơ như thế đòi hỏi một loại thi pháp tĩnh, dòng thơ dài (2 âm nhấn),ngắn (1 âm nhấn),những chữ quan trọng đứng cô lập, hoặc ở cuối dòng: nothing, cinders, broken, green. Bài thơ được sáng tác theo khoảng không gian, và mắt dừng lại ở chữ “green”, gợi nên sự tươi tốt, đối chọi với cảnh tan tác. Nhưng Williams không giải thích, chỉ duy trì cảm xúc tự chính chữ, cái chất lượng âm thanh kỳ lạ, hoàn toàn tách rời nghĩa chữ. Cấu trúc nhịp điệu chuyển động theo thời gian, nhưng bài thơ bất động, tưởng như vô tri giác, chẳng khác nào những đường nét lập thể của Picasso, khóa lại sự chuyển động (Williams và e.e. cummings đều yêu thích hội họa), cho chúng ta ý niệm về nhịp điệu thị giác.

Những phong trào tiền phong

T. S. Eliot và Ezra Pound tiếp tục ngự trị văn đàn tới giữa thế kỷ 20. T.S. Eliot với tập thơ Four Quartets(1943) viết ở Anh, được coi như là bài thơ Mỹ hay nhất ở thập niên 1940, gồm 4 bài thơ khác nhau: “Burnt Norton” (1935), “East Coker” (1940), “The Dry Salvages” (1941) và “Little Gidding” (1942). Và Ezra Pound với tập thơ Pisan Cantosxuất bản vào năm 1948. Nếu nửa đầu thế kỷ, thơ truyền thống lơi lỏng và thơ tự do đều đi song hành với những tên tuổi lớn như William Butler Yeats, Robert Frost (1874-1963), W.H. Auden, Ezra Pound, T.S. Eliot, William Carlos Williams, e.e. cummings, Wallace Stevens (1879-1955) … thì nửa sau thế kỷ, thơ tự do làm chủ văn đàn, trở thành thơ dòng chính với những phong trào tiền phong Hoa kỳ, và những nhà thơ tiếp tục gắn bó với truyền thống, dù xuất sắc, như Elizabeth Bishop (1911-1979), John Berryman (1914-1972), Randall Jarrell (1914-1965), Robert Lowell (1917-1977), Richard Wilbur (1921–), bị đẩy ra ngoài lề. Ảnh hưởng của Eliot – Pound ở nửa thế kỷ đầu được thay thế bởi Pound – Williams, cùng với Wallace Stevens, và với cái chết của nhà thơ W. B. Yeats vào năm 1939, và W. H. Auden di cư sang Mỹ, trung tâm hoạt động của thơ tiếng Anh chuyển từ Anh sang Mỹ, và bây giờ với phong trào Tân hình thức, ngọn cờ đầu của cuộc cách mạng vẫn nằm trong tay những nhà thơ Hoa kỳ. 

Hai trái bom nguyên tử rơi xuống Hiroshima và Nagasaki, tháng 8 năm 1945, chấm dứt thế chiến II, Hoa kỳ trở thành cường quốc về mọi mặt, đồng thời nhân loại bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh với sự đối đầu và chạy đua vũ trang. Thơ hậu chiến Hoa kỳ thể hiện tinh thần ấy, qua thử nghiệm của những phong trào tiền phong, vừa phản ứng vừa ly khai, vừa làm mới thơ xuyên qua ngôn ngữ nói, vừa tách rời thơ ra khỏi chức năng xã hội, trở về với bản thân của chính ngôn ngữ. Ở đây chúng ta thấy dấu mốc giữa hai thời kỳ, nửa đầu thế kỷ, những nghệ sĩ Mỹ bị thu hút và kích thích bởi những khám phá mỹ học từ Âu châu, đặc biệt là Pháp, và hàng loạt nhà thơ, họa sĩ, sang Âu châu học hỏi, như Ezra Pound, T.S. Eliot, e.e. cummings ... Nhưng nửa sau thế kỷ, những nghệ sĩ đó mang những học hỏi từ Âu châu trở về, chuyển sinh hoạt nghệ thuật từ Âu sang Mỹ và những trung tâm sinh hoạt chính là New York, San Francisco chứ không còn là London, Paris, đưa văn học nghệ thuật lên đỉnh cao nhất của thời hiện đại, thiết lập những cơ sở mang tính hàn lâm, đề cao thơ tự do như một đặc tính Mỹ. 

Trong hội họa là Trừu tượng Biểu hiện (Abstract Expressionism), Pop Art, và Hội họa Ý niệm (Conceptual Art), trong thơ là những phong trào tiền phong, phủ nhận quan niệm thẩm mỹ của T.S. Eliot, đồng thời phủ nhận triệt để truyền thống. Trước đây T. S. Eliot và những nhà thơ tự do đầu thế kỷ dùng cú pháp tạo nhạc tính, và kỹ thuật phần mảnh phá vỡ cốt truyện, những nhà thơ nửa sau thế kỷ, trái lại, có khuynh hướng dùng kỹ thuật phần mảnh phá vỡ cú pháp, và nhịp điệu được kết hợp bởi chi tiết thị giác và âm thanh ngôn ngữ. Sự khác biệt căn bản mỹ học giữa hai giai đoạn thơ tự do, theo nguyên tắc, được giải quyết trên vấn đề cú pháp, nếu nhịp điệu thơ T.S. Eliot do ngôn ngữ tự nhiên chuyển trên cái nền cú pháp, với kỹ thuật vắt dòng,thì những phong trào tiền phong dùng kỹ thuật dòng gãy và phần mảnhphá vỡ cú pháp. Khi cú pháp bị phá vỡ, ngôn ngữ rơi vào phần mảnh, không còn cái nền nào để chuyển động, đành quay về chính tự thân ngôn ngữ, tách rời cái nghĩa cụ thể, hòa nhập cùng dạng thức thị giác. Cách đọc cũng mới lạ khác thường, nương theo chiều dài của hơi thở và âm vực mỗi âm tiết, chẳng khác nào những ca sĩ chú tâm tới nghệ thuật luyến láy, khơi dậy cảm xúc và tưởng tượng bên trong nhà thơ và người đọc, với độ rung của âm thanh trọng âm, chính xác và rõ ràng đến ngạc nhiên.— Cần ghi chú: hình ảnh, ẩn dụ gợi nên từ chữ cụ thể là nội dung bài thơ, và hình thức (hay cấu trúc) là bản đồ chỉ cho người đọc biết cách đọc bài thơ. Ý nghĩa bài thơ, không phải nghĩa đen của chữ và nhóm chữ, mà tùy thuộc vào hành động của tâm trí (act of mind), nẩy sinh từ tiến trình đọc, và mỗi người đọc cảm nghiệm một cách khác nhau, nên bài thơ có những ý nghĩa khác nhau. Đa tầng đa nghĩa là đặc trưng của ngôn ngữ thơ, cả truyền thống lẫn hiện đại chứ không phải chỉ riêng cho thơ hiện đại.

The Ground-Mist

In hollows of the land
in faults and valleys the white fog
bruised by blue shadows
a mirage of lakes
and in the human
faults and depths silences
floating
between night and daybreak
illusion and substance.

But is illusion
so repeated, known each dawn,
silence suspended in the
mind’s shadow
always, not substance
of a sort? the white
bruised ground-mist the mirage
of a true lake.

Đất-Sương

Trong những hố sâu của đất đai
trong những rạn nứt và thung lũng 
sa mù trắng 
bầm 
do bóng xanh 
ảo ảnh của những hồ nước
và nơi con người 
những rạn nứt và sâu thẳm 
những im lặng 
bồng bênh
giữa đêm và sáng 
ảo và thực.

Phải chăng cái ảo 
được lập lại, biết 
mỗi bình minh, 
im lặng 
lửng lơ trong
bóng tâm trí 
luôn, chẳng phải cái thực
nào đó? 
trắng 
bầm 
đất-sương ảo ảnh
của hồ nước thực.

Trong bài thơ “Between Walls” của Williams còn dùng động từ như một từ nối thì bài thơ “Ground-Mist” của Denise Levertov (1923-1977), 12 dòng đầu không có động từ và thuộc từ, chỉ là những nhóm chữ, thể hiện hình ảnh rời rạc, tách biệt. Ngay tựa đề bài thơ, “Đất-Sương” là hai danh từ có gạch nối, tượng trưng cho thực và mộng, tưởng như phân cách, nhưng lại có quan hệ hổ tương – sương móc (Mist) là hơi đất xông lên, gặp lạnh thành sương, chỉ có vào ban đêm, chúng ta thường nghe “ơn mưa móc”, mưa và sương móc mang lại sự tốt tươi cho mùa màng, cây cối. 

Bài thơ phải đọc bằng mắt qua những dòng ngắn trang trí trên trang giấy cũng như lắng nghe từng nguyên tố âm tiết. Dòng chảy ngôn ngữ bị cắt đoạn bởi những phần mảnh cô lập với nhau, một cách nghịch lý lại làm mạnh tác dụng của bài thơ như một lời nói, thể hiện kinh nghiệm giác quan cá nhân và tính trung thực của nhà thơ. Nền đằng sau bài thơ không phải khoảng không mà là sự im lặng, trong đó chữ và nhóm chữ liên tiếp rơi xuống. Ý nghĩa bài thơ được nối kết giữa những đơn vị âm thanh của từng dòng thơ, và người đọc phải kinh nghiệm một cách sống động âm thanh của ngôn ngữ, vừa tự động vừa như ngắc ngứ, với giọng nói. Đáng lẽ những chi tiết nhịp điệu hình ảnh, thể hiện nhịp điệu cảm xúc, nhưng vì nhấn mạnh vào âm thanh và tiếng nói qua ý nghĩa phần mảnh, làm người đọc chú tâm hơn tới cách ứng xử của nhà thơ – quy vào nội tâm, hướng tới chuyển động của chính trái tim, cách thở, trong sự thu nhỏ tế nhị của dòng thơ. Thay vì phá vỡ hoặc hoàn toàn vứt bỏ cú pháp, như khuynh hướng của những phong trào tiền phong, Denise Levertov làm đứt đoạn cú pháp, vừa tiếp cận vừa rút lui, trong cách kiềm chế sự chuyển động qua bài thơ. Nửa đầu bài thơ, từ dòng 1-12, chia làm hai đoạn, mỗi đoạn 6 dòng, đều bắt đầu bằng một nhóm giới từ (prepositional phrase). Đọc đoạn trước, người đọc có cảm tưởng “the white fog” là chủ đề, sau 3 dòng bổ nghĩa cho sự diễn tả, chúng ta chờ đợi một hành động nào đó, nhưng chỉ gặp một cách khoảng, làm ngắt đoạn (stanza break). Đoạn sau bắt đầu với “and” báo hiệu một cái gì mới như một “mệnh đề” chẳng hạn, nhưng không, chỉ là sự lập lại văn phạm song song với đoạn trước, dẫn tới dấu chấm hoàn toàn sau “substance”. Không có hành động nào xảy ra, toàn là miêu tả, chỉ có động tác ngoài bài thơ, của nhà thơ, thiết lập cú pháp song song giữa fogvà human silences. Sự hoán đổi ẩn dụ đối chiếu (metaphorical juxtaposition) – “In hollows … lakes” và “and in human … substance.” – qua chuỗi cú pháp là điểm chính của cấu trúc bài thơ. Từ dòng 13 tới 20, tác giả dùng chữ cụ thể, thoát ly nghĩa chữ để gợi ra tưởng tượng, ở đây là “shadow” ám chỉ tâm trí và “dawn” ghi lại những hình ảnh ở nửa đầu bài thơ, làm người đọc quan tâm tới “the human / faults and depths” nhiều hơn “the land”. Từ đây, với động từ duy nhất, nhưng lại là động từ thụ động, “is”, giữa bài thơ, như một trục quay, bất ngờ chuyển từ “dawn” qua “shadow”, từ hình ảnh quay vào tâm trí, từ nhận xét quang cảnh sang sự tự vấn – quang cảnh và ngôn ngữ bất động, chỉ có tâm trí chuyển động, nối kết và hoàn tất trong sự thuyết phục của cú pháp. Sự thay đổi tạo nên mâu thuẫn – hệ quả của phái Hình tượng, lệ thuộc vào tiến trình ngữ pháp – thay vì qua dạng thức thị giác, đánh thức cảm xúc người đọc, bài thơ lại trở về nội tâm, nói lên tâm tư nhà thơ. Bốn dòng cuối nói lên chức năng bài thơ như một đối tượng hòa giải giữa tư tưởng và hình ảnh, từ chối một cách tế nhị xác định hay phủ nhận sự thay đổi, với tình trạng cú pháp mù mờ – hoặc trở lại với quang cảnh, đồng hành với cách trở lại sự tĩnh lặng của ngôn ngữ phi cú pháp(chữ rời rạc), hoặc tâm trí đã hoàn tất trên trục quay của chính nó, không có gì chắc chắn, không ai biết rõ, ngay cả tác giả. 

Bài thơ là thí dụ điển hình, dẫn đến những khai phá từ Black Mountain tới Thơ Ngôn ngữ, một thời kỳ đa dạng, sinh động và mới lạ, tập hợp được những trào lưu nổi bật nhất của thời hiện đại. Điểm chung của thời kỳ này là chủ ý lạ hóa, với phong cách khác thường, dù dựa vào ngôn ngữ nói hay viết, sáng tác trên nền tảng đòi hỏi sự phân tích phức tạp những tương quan xã hội và mỹ học, đẩy thơ tới một nghệ thuật khó, và người đọc phải nắm bắt được, không phải chỉ âm thanh ngôn ngữ nói, mà cả lý thuyết về văn học nghệ thuật, mang tính toàn bộ của nền văn minh phương Tây. Với tiêu chuẩn như thế, một người đọc bình thường khó có thể đáp ứng, ngoài những nhà trí thức và nhà thơ, nói chi tới người đọc mà tiếng Anh không phải là ngôn ngữ chính. Một thí dụ đơn giản, nhà thơ Denise Levertov, một phụ nữ Anh lấy chồng Mỹ, khuôn mặt tiền phong thập niên 1960, thú nhận, trước khi sang sinh sống tại Mỹ, đọc thơ Williams bà không biết làm sao phát âm, không thể đọc lớn và không hiểu cấu trúc nhịp điệu, nhưng sau khi sống tại Mỹ một thời gian, bà mới cảm được cái hay của thơ Williams, và là người ảnh hưởng từ Williams nhiều nhất. Ngay cả thơ Allen Ginsberg và thơ trình diễn, dựa hẳn vào ngôn ngữ nói, cũng chứa đầy những đặc ngữ Mỹ (American idiom) và tiếng lóng đường phố, cách đọc, cách phát âm và nhịp điệu cảm xúc tùy thuộc cách trình diễn, hoàn cảnh xã hội và sáng tác – làm sao người đọc cảm được cái hay khi không có tâm trạng như Allen Ginsberg, sáng tác “Howl” trong cơn say kích ngất của cần sa, hoặc như thơ John Ashbery (1927 –), người được những nhà phê bình đề cập tới nhiều nhất, nhưng người đọc lại chẳng hiểu bài thơ muốn nói gì, qua cách ông khai sinh cái vô nghĩa và vắng lặng. Trong phần này, người viết kết hợp những nhận định từ nhiều bài viết, bình luận của những nhà nghiên cứu phê bình, để chúng ta có một ý niệm khái quát. Thi pháp, sau Levertov, điển hình là Thơ Ngôn ngữ – được đẩy tới mức độ cao cấp, nhưng không còn thích ứng với thơ hiện thời – là một nghệ thuật phá sản, một kỹ thuật đã cạn kiệt, bởi người đọc quá mệt mỏi với trò chơi phân tích, xa cách thơ, và để lôi cuốn người đọc, thơ đang có xu hướng trở lại đời sống bình thường, với thi pháp đời thường.

Bắt đầu với trường phái The Black Mountain (1951 – 1956) – có thể kể Robert Creely (1926 –), Robert Duncan (1919-1988), Denise Levertov sử dụng những dòng ngắn, lập lại chữ, nhóm chữ, đơn vị dòng, tìm kiếm cấu trúc thơ – xoay quanh tiểu luận “Projective Verse” của Charles Olson (1910-1970), kết hợp giữa thị giác và thính giác, ảnh hưởng của Pound và Williams, chủ vào nhịp đập của hơi thở, trong quan điểm, hơi thở là con đường, trái tim tìm ra được lối đi tới dòng thơ, nói lên tiếng nói phức tạp và tâm hồn của cá nhân nhà thơ. Nhấn mạnh vào dòng thơ như thước đo của lời nói, các chữ khi đọc lên, thể hiện tâm tư và cảm xúc riêng biệt của từng nhà thơ, hình thức và nội dung liên hệ mật thiết 
với nhau, đưa quan điểm về hình thức của phái Hình tượng đi xa hơn, chú tâm vào cách đọc của từng âm tiết. Williams cho rằng thi pháp được tạo thành bởi nhịp điệu nói của chính cá nhân nhà thơ, tham dự vào nhịp điệu của đặc ngữ văn hóa (cultural idiom), nhấn mạnh vào tiếng Anh tại Mỹ (American English), khác với tiếng Anh tại Anh (British English). Sự phân biệt này được chú ý vào lúc thơ tự do bắt đầu nổi lên, có thể kể Walt Whitman, và sau này Allen Ginsberg, đều nghiêng về tiếng nói với âm giọng Mỹ. Cũng thời gian này (1950 – 1960), trường phái New York với Frank O’Hara (1926-1966), John Ashbery, Kenneth Koch (1925 –) … ảnh hưởng của Whitman, Hart Crane (1899-1932), Williams và các họa sĩ trừu tượng biểu hiện như Willem de Kooning (1904-1977), Jackson Pollock (1912-1956) khai thác phần vô thức, đưa vào thơ chủ nghĩa siêu thực của chính họ với tinh thần hài hước, khá gần với thử nghiệm của trường phái Dada ở Paris thập niên 1920, viết trực tiếp và tức thì về những kinh nghiệm trong ngôn ngữ thường ngày, hình thức trở thành nội dung, ưa thích kỹ thuật phần mảnh. Những nhà thơ Hình tượng Sâu thẳm (Deep Image) – thế giới hiện tượng vừa che dấu vừa dẫn đến những hình ảnh bị chôn dấu – với Robert Bly (1926 –), James Wright (1927-1980) tạo được ảnh hưởng nơi các nhà thơ trẻ ở cuối thập niên 1960 hòa trộn chủ nghĩa siêu thực Nam mỹ, ảo giác và sự giận dữ của thời kỳ chống chiến tranh Việt nam. Một số nhà thơ tiếp nối trường phái New York, lấy hứng khởi từ đời sống thị dân, Pop art, phá vỡ hàng rào xã hội và văn học, báo hiệu sự ra đời của thế hệ Beat, làm sống lại chủ nghĩa lãng mạn, bài thơ không còn ngụy trang kinh nghiệm mà là chính kinh nghiệm, trụ vào những ý tưởng trong khoảnh khắc, nghiêng về tự truyện và nói lên tiếng nói rất cá nhân, ít quan tâm tới tính thuần nhất của nghệ thuật. Allen Ginsberg chịu ảnh hưởng của William Carlos Williams, Walt Whitman, William Blake, mang đời sống nguyên ròng vào thơ, đề cao nhạc Jazz và văn hóa Mỹ da đen, bứt khỏi lề luật với cần sa, và theo phong cách “cú pháp song song” của Whitman. “Howl” (1955) và những bài thơ của Allen Ginsberg, dùng những hình ảnh sống động, dòng thơ dài, tuôn tràn, lan man, thường lập lại, nói lên những vấn đề tính dục rõ ràng, ngay tức thời, có chất lượng như loại thơ ứng tác. 

Những trường phái và nhà thơ trên bây giờ còn rất ít ảnh hưởng, riêng những nhà thơ tự thú (Confessionalist) vào thập niên 1960 – Robert Lowell (1917-1977), Anne Sexton (1928-1974), Sylvia Plath (1932-1963), W.D. Snodgrass (1926 –) – kéo dài ảnh hưởng trên những nhà thơ ở thời kỳ 1970, qua hiệu quả đổi mới, nói về những đề tài riêng tư, sự bất lực và lạm dụng dục tính, đổ vỡ hôn nhân, nghiện ngập, bệnh tâm thần, loạn thần kinh, như sự tự thú nảy lửa của nhà thơ, diễn đạt sự tình cờ lạm dụng tính dục trẻ em hay tự nhà thơ so sánh bộ phận sinh dục của mình với con gái. 

Hầu hết những nhà thơ Hoa kỳ không nhiều thì ít đều rơi vào dòng chảy mang tính tự truyện này. Những nhà thơ từ thập niên 1950 tới 1980 bao gồm trong tuyển tập Thơ Hậu hiện đại Hoa kỳ (Postmodern American Poetry), từ Charles Olson tới Thơ Ngôn ngữ (L=a=n=g=u=a=g=e Poetry), với rất nhiều phong cách và quan điểm. Sợi chỉ xuyên suốt từ William Wordsworth, William Carlos Williams, Frank O’Hara tới Allen Ginsberg, nghiêng về ngôn ngữ nói thông thường, dẫn tới phong trào thơ trình diễn ở thập niên 1970 dùng kiểu văn nói, tìm kiếm cảm xúc mạnh, chữ có sức hấp dẫn như một kịch bản bằng lời. Một sợi chỉ khác, ảnh hưởng của thơ thị giác, với Black Mountain dẫn tới phong trào Thơ Ngôn ngữ vào thập niên 1980, nâng kỹ thuật lên vị trí đặc quyền, bài thơ là cấu trúc âm thanh và trí tuệ hơn cảm xúc – chữ trở thành vật liệu, rời xa cái trừu tượng trở về thế giới vật thể, và ngôn ngữ như một lối đi vào vô thức, đòi hỏi người đọc phải tham dự vào trò chơi đi tìm ý nghĩa. Những phong trào tiền phong ở thập niên 1950-1960 và những nhà thơ tự thú, khai thác tính chủ đề, chủ ý gây chấn động, cho tới thập niên 1980 bị phong trào tiền phong Thơ Ngôn ngữ, với sự hổ trợ mạnh mẽ của giới hàn lâm, phủ nhận và càn quét, mau chóng rơi vào bóng tối. Những phủ nhận này tiếp theo phủ nhận khác, nếu những phong trào tiền phong thập niên 1950-1960 phủ nhận triệt để truyền thống, thì phong trào tiền phong Thơ Ngôn ngữ, chẳng những phủ nhận truyền thống mà còn phủ nhận tất cả khai phá của những phong trào tiền phong trước đó. Phủ nhận, thật ra, là hàm ý phân biệt giữa cựu và tân thế giới, giữa Âu và Mỹ châu, như một khẳng định, nền văn minh phương Tây đã chuyển từ cựu sang tân lục địa, coi Mỹ châu là miền đất màu mỡ thực hành và ứng dụng một kỷ nguyên triết học mới, chủ nghĩa hậu hiện đại. Nếu thập niên 1960 với những rối loạn về tâm lý, xáo trộn chính trị xã hội, đã tạo nên trong sinh hoạt thơ sự hỗn loạn và hỏa mù thì cũng chính thập niên này manh nha những biến đổi mới. Trong khoa học là sự phát minh ra thuyết hỗn mang, và trong triết học, chủ nghĩa hậu cấu trúc đẩy chủ nghĩa hiện sinh vào lãng quên. Nói chung ở nửa sau thế kỷ 20, thơ đã tới chỗ cùng cực khó với phong trào tiền phong Thơ Ngôn ngữ Hoa kỳ, dựa vào lý thuyết văn học, chủ yếu là chủ nghĩa hủy cấu trúc, sử dụng kỹ thuật phần mảnh, giải phóng ngôn ngữ khỏi cú pháp, coi thơ là tự thân của chính ngôn ngữ. 

Với tôn chỉ của phái Hình tượng, những khuôn mặt quan trọng nhất của cuộc cách mạng như T.E. Hulme, Ezra Pound, William Carlos Wiliams và sau này T.S. Eliot đóng góp và làm nền móng mỹ học vững chắc cho thơ tự do. T.S. Eliot đưa ra ba yếu tố cách mạng trong thơ hiện đại: phá bỏ những từ ngữ không liên hệ tới ngôn ngữ nói thông thường, định hướng lại chủ đề và hình tượng, và đưa vào trong thơ chữ, nhóm chữ chưa bao giờ dùng, có khả năng liên hệ tới ngôn ngữ nói của đời sống hiện đại. Như vậy cũng không khác gì với cuộc cách mạng thời Lãng mạn với William Wordsworth, mang ngôn ngữ nói thông thường vào thơ, nhưng đi xa và cực đoan hơn, phá bỏ luôn thể luật. Lý do sự thất bại của thơ tự do là, quá thiên về nhạc tính, nhịp điệu âm thanh và thị giác làm cho thơ trở thành cầu kỳ, phá vỡ tính truyện làm cho thơ trở thành khó hiểu, coi thơ là một nghệ thuật cao dành riêng cho những thành phần ưu tú, một phương tiện chuyên chở tư tưởng triết học và lý thuyết phức tạp, và với những khai phá tự cho là mới mẻ, nhà thơ quay trở lại với cái tôi nội tại, không quan tâm tới người đọc. Những cực đoan này nối tiếp cực đoan khác và nửa sau thế kỷ, những nhà thơ tự do xa dần lý tưởng thơ, bài thơ là đối tượng phân tích chứ không phải để thưởng thức theo cách thông thường.

Gọi là thơ tự do, nhưng thật ra, khó khăn và khúc mắc gấp bội truyền thống vì nếu thơ truyền thống chỉ có luật một dòng thơ, thì thơ tự do, mỗi nhà thơ tìm kiếm và thử nghiệm những luật tắc khác nhau, người đọc trước khi hiểu thơ phải theo dõi những phân tích mỹ học, văn phạm cú pháp cùng ý nghĩa thị giác và nội dung từng bài thơ. Những phong trào tiền phong, từ Charles Olson tới Thơ Ngôn ngữ, đã một thời chứng tỏ được sức mạnh và hào hứng, bởi lúc đó, những phương tiện giải trí và tiện nghi đời sống chưa đủ sức mạnh lôi cuốn quần chúng, nhưng bây giờ thì khác, đành cùng với những tác phẩm lớn thời hiện đại, rơi vào số phận hẩm hiu, sống quanh quất trong khuôn viên các trường đại học. Những luật tắc và quan điểm thẩm mỹ càng rắc rối bao nhiêu, càng hạn chế tài năng nhà thơ, nhưng nếu không có luật tắc thì cũng không có nhà thơ. Hai điều đã tạo thành những tên tuổi lớn trong thơ tiếng Anh như William Wordsworth, Ezra Pound, T.S. Eliot, William Carlos Williams, W.H. Auden, Đức với Johann W. Goethe (1749-1832), và Nga với Alexander Pushkin (1799-1837): ngôn ngữ nói thông thường và thể thơ không vần. Thơ tự do phương Tây, đặc biệt là thơ tiếng Anh đã hoàn tất vai trò của nó, thành công cũng như thất bại, trở về vị trí đúng thực, đằng sau hậu trường văn học. Và thơ lại bắt đầu một chuyển động mới, nhận ra ưu và khuyết điểm, phù hợp với thời đại, bắc cầu giữa truyền thống và tự do – và thể thơ không vần lơi lỏng truyền thống, tự do hơn cả thơ tự do mà vẫn nằm trong luật tắc, làm thành một thể thơ lý tưởng, có khả năng bao gồm nhiều phong cách, từ đối thoại tới kịch nghệ và tất cả những gì đang xảy ra trong đời sống hiện tại.

Trích VŨ ĐIỆU KHÔNG VẦN
Tìm đọc giá 75.000VNĐ NXB VĂN HỌC

TA CHẲNG CÒN TIN NHAU NỮA

TA CHẲNG CÒN TIN NHAU NỮA

Dần dần ta chẳng còn tin nhau
đi ra đường gặp nhau cũng chẳng
cười thật lòng với nhau chỉ là
bởi vì có những chuyện chẳng ảnh
hưởng gì đến thế gian này quay
quắt vậy mà ta vẫn chẳng tin
nhau ta vẫn chẳng cho nhau một
nụ cười tận đáy lòng mà chỉ
là nụ cười thừa thãi thời gian...

vì điều gì không biết nữa những
cái lợi trước mắt ừ trước mắt
là bao lâu? có thể là ngày
mai trước cái chết cận kề ta
hèn nhát và sơ hãi có thể
là ngày mai trước kiêu hãnh ta
đứng và dù gì cũng là vì
ta quẫy đạp sự sinh tồn là
ngày mai không biết là bao lâu...

có thể chỉ vì nguồn năng lượng
chỉ còn đủ cho thế giới này
tồn tại thêm ba ngàn năm nữa
nên ta cần chiến tranh để cứu
chuộc những loài động vật như ta
hai chân hai tay và chẳng ai
là không có cái đầu được sinh...

từ yêu thương...một bộ luật
công
bằng...

Xuân Thủy 8.8.2013

BỨC THƯ GỬI NGƯỜI BẠN

BỨC THƯ GỬI NGƯỜI BẠN

mình sinh ra đã sợ loài người
lúc lọt lòng đời phải ra đi

từ quê nghèo bạn thành trí thức
nhưng trên giấy tờ là giai cấp
nông dân để rồi chẳng biết đến
khi nào nước mình phi nông nghiệp
cả làng mừng lắm có mình bạn
nở mặt nở mày nuôi hy vọng...

mình sinh ra từ anh bộ đội
chiến thắng trở về còn được sống
bế mình lên khoe khắp xóm làng
đi tranh công nuôi nấng dỗ dành
người mẹ hậu phương tủi thân còm
lại dơ tay lên mặt dạy đời...

chê anh bạn con nhà bạn mẹ
rớt rồi thấy không ... thành trí thức

vậy mà giờ đây chúng mình đứa
nào cũng bệnh thế này thế kia
còn anh bạn lạc giữa đời lên
làm ông chủ đi thuê chúng mình...

cái lũ bộ đội quen thời
dân nuôi nấng chỉ lo đánh giặc
bây giờ đất nước hòa bình chúng
già thêm tiếp ăn không ngồi rồi
lại đẩy mình vào cái tổ chúng
tạo ra tiếp tục từ mồ hôi
người nông dân lam lũ bĩ cực...

vậy mà chúng vẫn than chúng khổ
quỳ lạy trước con mình mà khóc
đời cha bĩ cực lắm con ơi
đến sắp lìa đời nó vẫn bảo
nhà này là công bố tất cả...

ôi những kẻ cướp mồ hôi nước
mắt con người sao thấy được cảnh
này chiến tranh tạo ra loài cầm
thú gầm gừ rằng ta chiến thắng...

tay cầm cây súng giết quân thù
khổ nỗi chưa một lần ra mặt
trận để được chết đến vô danh
suốt ngày ru rú trong đơn vị
lau chùi cái xe cho ông tướng
nên bây giờ nó đẻ ra tôi...
thế rồi vị tướng đã hy sinh
vậy là nó được cấp cái nhà
cái nhà của những người chiến bại
có khác gì giết người cướp của
chỉ khác chăng chữ nghĩa trắng đen...
cái áo kẻ xây nên tất cả
nhưng tâm hồn của người chiến thắng
chẳng biết làm chi ngoài đồng ruộng...

vì thương người nông dân lam lũ
bĩ cực... bạn chịu đủ điều đau
khổ nhất bị hành hạ bở cái
trường cái nhà tù ngu dốt tạo
ra chúng mình lại chung một chỗ...

bạn giờ đây phải thay hai hòn
thận bây giờ tôi cũng không tả
được những ngày qua cứ tới giờ
phải có mặt ở nhà bộ đội
cái nết ở ăn kỷ luật cứ
tới giờ phải đi học đại học
nếu không đi cho là bỏ học
lại thế này thế kia... câm lặng
còn bạn không tiền đi ngủ ngoài
đường như kẻ ăn xin đi học
dối làng đi làm thêm đi học
trở về làng khác nào bỏ học
bạn khóc thay tiếng khóc mẹ cha...
người nông dân... bạn gắng nhé kể
tôi nghe những ngày bĩ cực bĩ
vì ta cùng khổ ở cùng nhau
mà tâm hồn như cái cây khô...

tôi đã bước lên bàn mổ vậy
mà tôi không muốn chết vì tôi
còn le lói nếu mình mổ sẽ
lấy ra được những gì tích tụ
ở trong lòng trong câm lặng sẽ
vứt bỏ được những gì đè nén
con tim ... tôi sẽ được tự do
sau con dao mổ của bác sĩ
sau sáu mươi ngàn đồng bộ đội...

tự do một loài hoa ưu đàm
một loài hoa không muốn không muốn
không muốn nở để chờ ba ngàn
năm nữa ba ngàn năm nữa tôi
tôi muốn là loài hoa ưu đàm...

Ôi tự do được làm tất cả
bằng bàn tay khối óc của mình
dẫu là không ngày mai chỉ là
.

Mỗi ngày qua là ngày đau khác
vậy mà sao ai cũng hát mòn...

Xuân Thủy 9/8/2013

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2013

CHUYỆN CŨ CỦA EM Ở ĐÀ LẠT

CHUYỆN CŨ CỦA EM Ở ĐÀ LẠT

Đã mấy lần ghé Đà Lạt
vì lẽ gì không rõ nữa không kỷ
niệm nào đâu một mối tình
chuyện bịa đặt hay là em từng ở
đó với một mối tình của
em không có anh không có anh không
kỷ niệm không một món quà
chẳng ghé nhà em chẳng thắp hương nồng...

Không có thời gian đi chợ
vì Đà Lạt chủ nhật vừa rồi bỗng
nhiên đông trời lạnh băng đến
lòng tê tái cả khối óc cũng hóa
băng hà lòng buồn vời vợi
trong tê tái anh đi về con phố
khuya đường Hà Huy Tập khối
óc này dang dở những mùa yêu dấu
cũ để lòng cuộn tròn trong
chăn ủ ấm hồn anh lạnh ba mươi
mấy mùa xuân rồi xuân rồi
anh nghĩ chỉ giấc ngủ là hạnh phúc...

bình yên nhé ta yêu nhau
vì một lẽ chỉ mong cho nhau bình
yên nhé bình yên nhé... yêu...

đã lâu rồi lâu rồi anh
chẳng nghĩ đến em quanh chúng mình là
những bộn bề cả nghĩ chẳng
đến đâu nhưng rồi cứ cố trong trong
căn phòng nhỏ tổ ấm của
riêng em làm được gì thì cứ sẽ
sẽ làm thôi cho qua ngày
say giấc mơ về không cựa mình bươn
chải với nhân gian hạnh phúc...

Xuân Thủy 6.8.2013

HỘI NGƯỜI CÔ ĐỘC

HỘI NGƯỜI CÔ ĐỘC

Những người cô độc đang bị đẩy
ra xa dần thành phố xa dần
xa dần nỗi cô đơn hào nhoáng
và bóng lộn xa dần cười cợt
đùa vui hào hoa phong nhã người
Sài Gòn không biết nữa là sao để
làm người Sài Gòn ôm điếu thuốc
lá là một cô gái người Sài Gòn
mặt búng sữa và cô cũng không
là ngoại lệ ... với những con người
bươn chải lao về quê cảnh nghèo
buồn lại lao lên thành phố thành
phố điệp khúc buồn nhìn cảnh người
Sài Gòn phì phèo điếu thuốc lá
rồi phỉ nhổ câu chửi tục hay
cười cợt phong nhã nâng ly rượu
đổ buồn vào mắt người cô độc...
(bị đẩy khỏi gia đình tế bào
xã hội) bị đẩy khỏi hội người ...

Xuân Thủy 02/8/2013